Cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.
Cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong
bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.
Cách mạng công nghiệp 4.0
hình thành trên nền tảng khoa học – công nghệ, do đó, để có thể tiếp cận xu thế
của công nghiệp 4.0, một trong những yêu cầu quan trọng là áp dụng khoa học –
công nghệ vào hoạt động hành chính, dịch vụ công của các cơ quan nhà nước. Từ
đó, tạo môi trường kinh doanh – sản xuất thuận lợi cho người dân và doanh
nghiệp.
Việt Nam đang bước vào
một giai đoạn phát triển và hội nhập mới. Trong giai đoạn 2016 – 2020, công
nghiệp hóa theo hướng hiện đại hóa đã được xác định là trọng tâm của chiến lược
phát triển quốc gia. Cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên số hóa và kết nối là xu
thế của thế giới và có thể mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời cũng đưa đến những thách thức đối với quá
trình phát triển. Trong quá trình thay đổi này, người dân và doanh nghiệp (DN)
mong muốn và đòi hỏi bộ máy hành chính cũng phải thực sự đổi mới, ứng dụng công
nghệ thông tin (CNTT), thực hiện dịch vụ công trực tuyến và đơn giản hóa thủ
tục hành chính (TTHC) thực sự hiệu quả hơn.
Tỉnh
Tiền Giang ký kết hợp tác với Zalo chính thức triển khai tra cứu Hành chính
công, dịch vụ chính quyền điện tử 4.0 (nguồn: https://vtv.vn).
Thực trạng cải cách thủ
tục hành chính ở Việt Nam
Thời gian qua, hoạt động
cải cách TTHC của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước (HCNN) đã đạt được
những kết quả khả quan. Mối quan hệ giữa cơ quan HCNN với người dân và DN được
cải thiện đáng kể, thông qua một loạt các biện pháp như cải cách TTHC gắn với
thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông; công khai hóa, minh bạch hóa các
quy định về TTHC (nhất là TTHC về thuế và bảo hiểm xã hội). Theo đó, các TTHC
được rà soát, sửa đổi, bãi bỏ theo hướng đơn giản hóa, thuận tiện cho người dân
và DN.
Việc triển khai thực thi
phương án đơn giản hóa TTHC theo 25 nghị quyết chuyên đề của Chính phủ đã được
các bộ, ngành thực hiện cơ bản hoàn thành1. Hằng
năm, việc rà soát, đơn giản hóa TTHC; việc công bố, niêm yết công khai tại nơi
tiếp nhận, giải quyết TTHC đã giúp giải phóng nguồn lực xã hội, nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia. Cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tiếp tục
được đẩy mạnh triển khai tại các địa phương. Riêng trong năm 2018, các bộ,
ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh việc rà soát, đề xuất cơ quan có thẩm quyền
các phương án cắt giảm, đơn giản hóa thành phần hồ sơ, điều kiện thực hiện
TTHC; tăng cường ứng dụng CNTT trong quy trình thực hiện nhằm rút ngắn thời
gian giải quyết hồ sơ, tạo thuận lợi cho người dân, DN.
Công tác rà soát, cắt
giảm, đơn giản hóa TTHC có nhiều chuyền biến tích cực. Chẳng hạn, Bộ Tài chính
đã phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa đối với 176 TTHC (trong đó, cắt
giảm 148 thủ tục và đơn giản hóa 28 thủ tục) thuộc các lĩnh vực quản lý của Bộ.
Các lĩnh vực có nhiều TTHC được đề xuất cắt giảm là: chứng khoán (giảm 36 thủ
tục); công sản (giảm 23 thủ tục); kho bạc (giảm 10 thủ tục). Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đã ban hành và trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật để đơn giản hóa 30 TTHC liên quan đến đầu tư, kinh doanh
(Nghị định số 140/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ về sửa đổi các nghị
định liên quan đến đầu tư kinh doanh, TTHC do Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội quản lý). Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cắt giảm, đơn giản hóa
32/63 TTHC liên quan đến hoạt động kiểm tra chuyên ngành.
Bộ Công Thương đã rà
soát, đề xuất phương án cắt giảm, đơn giản hóa đối với nhiều TTHC thuộc lĩnh
vực vật liệu nổ công nghiệp, lĩnh vực xuất, nhập khẩu và lĩnh vực điện. Trong
năm 2018, Bộ cũng đã trình Chính phủ ban hành một số nghị định để thực thi phương
án đơn giản hóa đối với nhiều TTHC như: sửa đổi, đơn giản hóa 9 thủ tục thuộc
lĩnh vực xúc tiến thương mại (Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của
Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại
thay thế Nghị định số 37/2006/NĐ-CP); đơn giản hóa thành phần hồ sơ, giảm thời
gian thực hiện đối với 3 thủ tục thuộc lĩnh vực giao dịch hàng hóa (Nghị định
số 51/2018/NĐ-CP ngày 09/4/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
158/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006); bãi bỏ 5 thủ tục thuộc lĩnh vực cạnh tranh
(Nghị định số 40/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 về quản lý hoạt động kinh doanh theo
phương thức đa cấp thay thế Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014)2.
Một số địa phương đã rà
soát, triển khai các biện pháp cụ thể nhằm rút ngắn thời gian, giảm chi phí
giải quyết TTHC cho người dân, DN. Chẳng hạn, tỉnh Quảng Ngãi, sau khi rà soát,
đánh giá, đã có tổng số 129 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của 5 sở được rút
ngắn thời gian giải quyết từ 02 – 12 ngày so với quy định. Tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu đã ban hành quyết định rút ngắn thời gian giải quyết của 535 TTHC thuộc
thẩm quyền giải quyết của 19 sở, ngành, trong đó có TTHC được rút ngắn thời
gian giải quyết 32 ngày so với quy định. Tỉnh Ninh Bình qua rà soát đã rút ngắn
30% thời gian giải quyết đối với 7 thủ tục thuộc lĩnh vực giao thông vận tải,
xây dựng, văn hóa, thể thao; đồng thời, kiến nghị các bộ nghiên cứu trình cấp
có thẩm quyền bãi bỏ 1 thủ tục thuộc lĩnh vực tư pháp, bỏ việc lấy mẫu xét
nghiệm trong 1 thủ tục thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn; gộp
2 thủ tục thành 1 thủ tục thuộc lĩnh vực y tế 3.
Về cắt giảm điều kiện
kinh doanh, theo kế hoạch, các bộ, cơ quan có ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện phải xây dựng, sửa đổi, bổ sung để trình cấp có thẩm quyền ban hành 19
luật và 51 nghị định để đơn giản, cắt giảm 3.794/6.191 điều kiện kinh doanh.
Tính đến đầu tháng 12/2018, các bộ, cơ quan đã trình ban hành được 3 luật và 25
nghị định, chính thức cắt giảm, đơn giản hóa được 3.346/6.191 điều kiện, đạt
54,5%. Hiện còn 16 luật, 26 nghị định về cắt giảm, đơn giản điều kiện kinh
doanh chưa được ban hành. Việc sửa đổi, bổ sung các luật đã được đưa vào chương
trình xây dựng luật năm 2019. Đã có 8/16 bộ đánh giá tác động và thực hiện đơn
giản hóa, cắt giảm điều kiện kinh doanh4.
Mục tiêu quan trọng nhất
của cải cách TTHC là tạo thuận lợi cho người dân, các tổ chức và DN, đồng thời
giảm áp lực cho các cơ quan công vụ. Chính vì vậy, Quyết định số 45/2016/QÐ-TTg
ngày 19/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai tiếp nhận hồ sơ và trả
kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích đã ra đời, góp phần thực
hiện tốt mục tiêu này. Sau hai năm triển khai thí điểm việc tiếp nhận hồ sơ và
trả kết quả giải quyết TTHC qua bưu điện, hiện 63 bưu điện tỉnh, thành phố trên
cả nước đã chính thức thực hiện dịch vụ này. Năm 2018, có hơn 12 triệu lượt hồ
sơ đã được tiếp nhận và trả kết quả giải quyết TTHC qua bưu điện, tăng 33% so
với cùng kỳ.
Nhiều thủ tục trước đây
người dân phải đi lại, chờ đợi thì nay đã trở nên đơn giản hơn rất nhiều, bởi
việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết TTHC đã được triển khai tại gần
1.600 bưu điện văn hóa xã. Riêng tại TP. Hồ Chí Minh, mỗi ngày, Sở Tư pháp phải
giải quyết từ 600 – 1.200 hồ sơ hành chính phục vụ người dân, DN. Trong đó,
khoảng 50% lượng hồ sơ là cấp phiếu lý lịch tư pháp5. Hiện nay, người dân không cần trực tiếp đến Sở vẫn có thể nộp
và nhận phiếu lý lịch tư pháp. Rõ ràng, với việc nhận hồ sơ và trả kết quả qua
bưu điện, người dân và DN có thể tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức và
chi phí đi lại, chờ đợi.
Bên cạnh việc đẩy mạnh
thực hiện tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết TTHC tại nhà, một điểm nổi
bật khác trong lĩnh vực cải cách TTHC thời gian qua là việc triển khai thí điểm
đưa bộ phận một cửa các cấp về đặt tại trụ sở của bưu điện ở một số địa phương
theo Nghị định số 61/2018/NÐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ về việc thực hiện
cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC. Lợi ích mang lại
trước hết đối với Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp sẽ không phải bố trí kinh phí
để xây dựng trụ sở, nhất là không phải bỏ chi phí thường xuyên để duy
trì, sửa chữa, bảo dưỡng trụ sở, trang thiết bị cho bộ phận một cửa.
Ngoài ra, khi đưa bộ phận
một cửa về đặt tại bưu điện, nhân viên bưu điện cũng sẽ phối hợp với cán bộ,
công chức, viên chức tại nơi thực hiện tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải
quyết TTHC. Ðiều này không chỉ góp phần thực hiện mục tiêu triển khai chính phủ
điện tử, chính quyền điện tử, mà còn giúp cơ quan hành chính các cấp giảm tải
được công việc để tập trung cho chuyên môn, sắp xếp lao động, tinh giản biên
chế. Hiện nay, việc đưa bộ phận một cửa các cấp về đặt tại trụ sở của bưu điện
đang được triển khai thí điểm tại một số địa phương, như Ðồng Tháp, Tiền Giang,
Quảng Ngãi… Trong đó, riêng ở Ðồng Tháp, sau hai giai đoạn triển khai, tại thị
xã Hồng Ngự và các huyện Hồng Ngự, Tân Hồng, Lai Vung cũng như 23 đơn vị cấp xã
của 10 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh, toàn bộ các TTHC thuộc các
lĩnh vực người dân quan tâm như: lao động, y tế, giáo dục, văn hóa, nông
nghiệp, công thương, nội vụ, tài chính… đã được thực hiện tại điểm giao dịch
của bưu điện6.
Các bộ, ngành đã ứng dụng
CNTT, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao cho người dân, trong đó đã
cung cấp hơn 900 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4. Các tỉnh, thành phố cung
cấp gần 14.000 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4. Một số dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3, 4 đã đem lại hiệu quả cao, như: lĩnh vực hải quan, thuế xử lý
trên 21 triệu hồ sơ trực tuyến, Bảo hiểm xã hội xử lý trên 28 triệu hồ sơ trực
tuyến, ngành Ngoại giao trên 1,6 triệu hồ sơ trực tuyến, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
trên 450 ngàn hồ sơ trực tuyến, Bộ Tư pháp trên 258 ngàn hồ sơ trực tuyến7.
Những hạn chế, bất cập trong
thực hiện cải cách thủ tục hành chính
Bên cạnh những kết quả và
chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực quản lý, cải cách TTHC vẫn còn những
tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Đó là việc tổ chức thực hiện 25 nghị
quyết của Chính phủ tại một số bộ, ngành còn chậm. Hoạt động đánh giá tác động
và lấy ý kiến đơn vị kiểm soát TTHC đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật có quy định về TTHC chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc; việc thẩm định
quy định TTHC trong một số văn bản quy phạm chưa chặt chẽ, dẫn đến TTHC trên
nhiều lĩnh vực còn phức tạp và tiếp tục là rào cản trong hoạt động sản xuất –
kinh doanh, đời sống nhân dân.
Tiến độ thực hiện Đề án
896 (Đề án tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân và cơ sở dữ liệu liên
quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 – 2020) chậm hơn so với kế hoạch được
duyệt. Hoạt động của Hội đồng tư vấn cải cách TTHC chưa hiệu quả. Việc thực
hiện cơ chế “một cửa liên thông” còn chồng chéo. Cụ thể, quy trình của nhiều
TTHC còn rườm rà, tính công khai còn hình thức, chưa bảo đảm kịp thời, đầy đủ,
không thống nhất về số lượng và nội dung thủ tục, gây phiền hà cho người dân và
DN.
Thẩm quyền giải quyết các
TTHC còn nhiều cửa và khâu trung gian, chưa rõ ràng trong các quy định về thẩm
quyền của các cơ quan trong quản lý một số lĩnh vực. Phương thức thực hiện các
TTHC của các cơ quan HCNN còn mang tính kinh nghiệm, chưa tích cực áp dụng
những tiến bộ công nghệ tin học để phù hợp với nhu cầu trong điều kiện hội nhập
quốc tế.
Những tồn tại, hạn chế
nêu trên có nhiều nguyên nhân, đó là: nhận thức, tư duy về quản lý HCNN trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức chậm được đổi mới, chưa thấy được hết ý
nghĩa, tầm quan trọng và đòi hỏi cấp bách của cải cách TTHC; chưa xây dựng được
cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả đối với đội ngũ công chức thực thi công
vụ trong tiếp nhận và giải quyết TTHC trong các lĩnh vực; xây dựng và vận hành
chính phủ điện tử chưa đáp ứng yêu cầu của cải cách TTHC.
Một số giải pháp nâng cao
cải cách thủ tục hành chính trong thời gian tới
Thứ nhất, nâng cao nhận thức
của các chủ thể trong xã hội về tầm quan trọng của cải cách TTHC, hướng tới xây
dựng nền hành chính hiện đại. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng là phải nâng cao
nhận thức về cải cách TTHC cho toàn thể cán bộ, công chức và nhân dân để tạo
hiệu ứng chung trong toàn xã hội cùng chung tay tham gia thực hiện. Chính vì
vậy, tiếp tục phát huy việc chuyển nhận thức từ cơ chế nền hành chính “mệnh
lệnh”, “xin – cho” sang nền hành chính “phục vụ”; coi người dân và DN thực sự là
“đối tác”, “khách hàng” trong cung cấp dịch vụ công.
Thứ hai, đẩy mạnh xây dựng
và vận hành chính phủ điện tử, góp phần cải cách TTHC và các dịch vụ công. Cần
tăng Chỉ số phát triển chính phủ điện tử và Chỉ số thành phần về cung cấp dịch
vụ công trực tuyến trong khu vực và trên thế giới. Ngoài các TTHC trong cung
cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4, hầu hết các thông tin, mẫu biểu hồ sơ
liên quan đều được đưa lên mạng internet để người dân, DN có thể tra cứu, tải
xuống chuẩn bị trước khi thực hiện các TTHC (đạt mức độ 1, 2), các bộ, ngành,
các sở Nội vụ, sở Thông tin và Truyền thông của các tỉnh, thành phố tiếp tục
thực hiện tốt Chương trình phối hợp thúc đẩy gắn kết ứng dụng CNTT với cải cách
hành chính giai đoạn 2017 – 2020 để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, xây
dựng nền hành chính hiện đại.
Trong đó, Bộ Thông tin và
Truyền thông cần phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về xây dựng,
vận hành chính phủ điện tử; nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng hệ thống quản
lý văn bản và điều hành, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 nhằm đáp
ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 với các nội dung như ứng dụng internet
kết nối vạn vận (IoT), ứng dụng điện toán đám mây (Cloud Computing), xử lý dữ
liệu lớn (Big Data), mạng xã hội (Social network), đô thị thông minh (Smart
city)…
Thứ ba, nâng cao hiệu quả
thực thi công vụ cho đội ngũ công chức tiếp nhận và giải quyết TTHC. Đặc biệt,
đề cao trách nhiệm thực hiện các quy định của pháp luật trong tiếp nhận, xử lý
nhanh chóng, kịp thời các TTHC của công chức nhà nước. Theo đó, phải lấy kết quả
cải cách TTHC hằng năm là cơ sở quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm
vụ, năng lực lãnh đạo, điều hành của người đứng đầu cơ quan HCNN các cấp; là
một trong những tiêu chí đánh giá, bình xét thi đua, khen thưởng cho tập thể,
cá nhân.
Ban hành và thực hiện
hiệu quả cơ chế kiểm tra, thanh tra việc thực thi công vụ của đội ngũ công chức
tiếp nhận và giải quyết TTHC. Xử lý nghiêm người vi phạm và khen thưởng kịp
thời những người thi hành xuất sắc nhiệm vụ nhằm tiếp tục tạo bước chuyển căn
bản trong quan hệ giữa cơ quan HCNN với cá nhân, tổ chức và DN, giữa các cơ
quan HCNN với nhau trong giải quyết và thực hiện các TTHC. Có cơ chế pháp lý
hữu hiệu đối với các cơ quan HCNN trong việc tiếp nhận, xử lý các phản
ảnh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức và DN về cơ chế, chính sách, TTHC không còn
phù hợp.
Thứ tư, tăng cường giao lưu,
học tập kinh nghiệm giữa các thành phố, tỉnh và tham quan, học tập kinh nghiệm
các nước về cải cách TTHC. Việc trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau giữa các
thành phố, tỉnh trong nước về cải cách TTHC có ý nghĩa quan trọng trong tiến
trình xây dựng nền hành chính hiện đại, phục vụ nhân dân, qua đó, tìm ra các
sáng kiến, các giải pháp hiệu quả nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế trong hoạt
động quản lý HCNN và cắt giảm tối đa các TTHC rườm rà để tiết kiệm thời gian,
công sức của cá nhân, tổ chức sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước. Bên cạnh đó còn cần phải học tập kinh nghiệm các nước
về cải cách TTHC, nhất là các nước có nền hành chính phát triển và điều kiện
kinh tế – xã hội tương đồng với Việt Nam.